A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

SỐ HÓA DI TÍCH LỊCH SỬ ĐÌNH LÀNG VÂN DU THƯỢNG

 

 

Di tích có tên gọi là đình làng Vân Du Thượng, vì di tích được xây dựng trên địa phận làng Vân Du Thượng, nhân dân lấy tên làng đặt cho di tích, đây là cách gọi tên di tích theo địa điểm phân bố.

          Di tích còn có tên gọi khác là đình Vân Thượng.

          Căn cứ theo Công văn số 1985/UBND-VHTT ngày 27 tháng 9 năm 2022 của UBND huyện Yên Mô về việc đề nghị xếp hạng di tích lịch sử văn hóa đình làng Vân Du Thượng, xã Yên Thắng và Biên bản Hội nghị thông qua Hồ sơ di tích tại địa phương, thống nhất tên gọi cho di tích là đình làng Vân Du Thượng.

          PHẦN II: ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ - ĐƯỜNG ĐI ĐẾN DI TÍCH

  1. Địa điểm phân bố

          Đình làng Vân Du Thượng hiện nay thuộc làng Vân Du Thượng, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

          Xã Yên Thắng nằm ở phía Tây huyện Yên Mô, phía Đông giáp Yên Hòa, phía Bắc giáp xã Mai Sơn và xã Khánh Thượng, phía Tây giáp phường Yên Bình (thành phố Tam Điệp), phía Nam giáp xã Yên Thành và vùng rừng núi huyện Hà Trung (tỉnh Thanh Hóa).

          Xã Yên Thắng gồm các thôn (làng): Trà Tu, Vân Du, Khai Khẩn, Bình Hào, Quảng Thượng, Quảng Hạ, Trại Sối, Cầu Mễ, Cầu Cọ, Phố Tu.

          Vùng đất có di tích được hình thành khá sớm, gắn liền với không gian của vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Tên gọi dùng đát qua các thời kỳ có thay đổi như sau:

          Thời nhà Lý vùng đất có di tích thuộc phủ Trường Yên, thời nhà Trần gọi là Mô Độ, thời thuộc Minh (1407-1427) đổi tên thành Yên Mô, thuộc châu Trường Yên, phủ Kiến Bình.

          Thời Hậu Lê, đời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Quang Thuận (1460-1469) Yên Mô thuộc phủ Trường Yên năm đầu niên hiệu Hồng Đức (1470) quy định lại bản đồ trong thiên hạ, Trường Yên thuộc thừa tuyên Sơn Nam.

          Đầu thế kỷ XIX, năm Gia Long thứ nhất (1802) vùng đất có di tích thuộc huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, đạo Thanh Bình; Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) đạo Thanh Bình đổi thành trấn Ninh Bình, năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) đạo Ninh Bình đổi thành trấn Ninh Bình, năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) trấn Ninh Bình đổi tên thành tỉnh Ninh Bình; Năm Minh Mệnh thứ 13 (1832) đổi phủ Trường Yên thành phủ Yên Khánh, di tích thuộc xã Vân Du, huyện Yên Mô, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

          Năm Duy Tân thứ 3 (1909) và Khải Định (1924) di tích thuộc xã Vân Du, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

          Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, di tích thuộc thôn Vân Du Thượng, xã Vân Du, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

Năm 1946, các thôn Trà Tu, Vân Du, Đàm Khánh, Lý Nhân, Quảng Nạp, Hải Nạp, Bình Hào hợp nhất thành xã Đồng Khánh, di tích thuộc thôn Vân Du Thượng, xã Đồng Khánh, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

Năm 1948, tách xã Đồng Khánh thành xã Hoành Sơn và Trung Hòa, di tích thộc thôn Vân Du Thượng, xã Trung Hòa, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

Năm 1949, hợp nhất xã Trung Hòa, Lam Sơn và một phần xã Trung Chính thành xã Yên Thắng, di tích thuộc làng Vân Du Thượng, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

Năm 1976, hợp nhất tỉnh Ninh Bình và Nam Hà thành tỉnh Hà Nam Ninh, di tích thuộc làng Vân Du Thượng,xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Hà Nam Ninh.

Năm 1977, 9 xã phía Bắc của huyện Yên Khánh hợp nhất với huyện Yên Mô và thị trấn Tam Điệp thành lập huyện Tam Điệp, di tích thuộc làng Vân Du Thượng, xã Yên Thắng, huyện Tam Điệp, tỉnh Hà Nam Ninh.

Năm 1992, tỉnh Ninh Bình được tái lập, di tích thuộc làng Vân Du Thượng, xã Yên Thắng, huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình.

Năm 1994, tái lập huyện Yên Khánh và huyện Yên Mô, di tích thuộc làng Vân Du Thượng, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình cho đến nay.

2. Đường đi đến di tích

Từ trung tâm thành phố Ninh Bình, theo Quốc lộ 1A về phía Thanh Hóa khoảng 9km đến ngã ba Thanh Sơn (thuộc địa phận xã Mai Sơn, huyện Yên Mô), rẽ trái theo Quốc lộ 12B khoảng 2km, rẽ phải qua cầu Tu mới, đi tiếp khoảng 300m đến ngã tư Xóm 1, rẽ trái theo trục xã khoảng 300m là đến di tích.

PHẦN III. PHÂN LOẠI DI TÍCH

Đình làng Vân Du Thượng làn nơi thờ chính nhân vật Vãng Vị tôn thần, một vị công thần triều Hùng Vương có công giúp dân, giúp nước, được nhân dân thờ cúng và tôn thờ với vai trò là vị Thành hoàng làng. Ngoài ra, di tích còn phối hợp thờ một số nhân vật khác như: Quan Văn, Quan Võ, Bản cảnh Thành hoàng, Trinh khiết Phu nhân và Liễu Hạnh công chúa... Hiện nay, tại di tích còn lưu giữ được những tư liệu, hiện vật quý như sức phong, long ngai, đại tự, câu đối, kiệu, bát hương... có giá trọ về mặt lịch sử văn hóa.

Căn cứ vào Điều 11 Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chinh phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung moojht số điều của Luật Di sản Văn hóa; Căn cứ vào các giá trị của di tích và tiêu chí xếp hạng, xác định đình làng Vân Du Thượng thuộc loại hình di tích lịch sử văn hóa.

        PHẦN IV. SỰ KIỆN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ, ĐẶC ĐIỂM CỦA DI TÍCH

  1. Nhân vật thờ cúng tại di tích:

1.Vãng vị tôn thần:  Công thần triều Hùng Vương:

Theo Thần tích xã Vân Du Thượng ghi năm Hoàng Triều Vĩnh Hữu thứ 6 (1740) ghi chép như sau:

Thần tích về vị thượng thánh Vãng Vị đại vương là công thần thời Hùng Duệ Vương...

Xưa nước Việt mở vận ở trời Nam, sông núi chia ngang theo sao Dực sao Chẩn, phía Bắc thuộc sao Đẩu, sao Ngưu. Từ khi vua Hùng mở vận, nước biếc một dòng; thống nhất 15 bộ tộc, thế lực thật là to lớn. Các đời vua thay nhau trị vì hơn hai nghìn năm. Khí thiêng thông tới Nghĩa Lĩnh, đời đời phụng sự ở núi Hùng. Các đời vua Hùng cha truyền con nối, đều xưng hiệu là Hùng Vương. Nước non gấm vóc thống nhất, đấy là tổ chủa nước Việt ta.

Bấy giờ có con gái họ Hùng ở xã Dục Mỹ, huyện Sơn Vy, phủ Diêu Giang, đạo Sơn Tây tên là Loan Nương, cha mất sớm, sống cùng mẹ, thường lấy nghề kiếm củi làm kế sinh nhai. Một hôm, Loan Nương cùng thân mẫu vào núi Nghĩa Lĩnh kiếm củi vừa xong, hai mẹ con đang nằm nghỉ, trong lúc mơ màng, bỗng nghe tiếng hổ gầm rú vọng ra từ đỉnh núi, hai mẹ con đều kinh hoàng, khiếp sợ, nép mình xuống. Lại thấy một con hổ đen chạy đến tảng đá, quấn quanh bụng Loan Nương. Loan Nương tinh thần hoảng loạn rồi ngất đi. Trong chốc lát, hổ đen biến mất, Loan Nương tỉnh lại, gánh củi trở về nhà. Từ đó, Loan Nương thấy trong mình chuyển động, tự nhiên có thai. Vì không muốn xấu hổ với dân làng và họ tộc nên lúc đêm khuya, Loan Nương thưa với thân mẫu muốn tìm nơi đất tốt để giữ mình. Thân mẫu nghe xong liền đồng ý. Loan Nương lên đường, đi hết ba ngày đến xã Vân Du, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, có gia đình ông Nguyễn Hào là bậc hào trưởng, hai vợ chồng ông vốn là người phúc hậu nhân từ, luôn cứu giúp kẻ nghèo khó. Hôm đó, Loan Nương tìm đến nhà và ông bà đồng ý cho ở lại nuôi dưỡng. Ngày mồng 2 tháng 2, Loan Nương sinh ra một cái bọc, nở ra một người con trai, mặt đỏ tựa như mặt trời, giữa bụng có 6 chữ: Vãng Vị Hộ Quốc Đại Vương. Sau khi sinh được 100 ngày, Loan Nương đột nhiên không bệnh mà mất. Ngày qua tháng lại, năm lên 8 tuổi, ngài đã thông thạo âm luật, thân mình dài 7 thước, sức địch trăm người, lại có tài năng lạ thường, thời bấy giờ đều ca ngợi là “Thánh đồng xuất thế". Một ngày nọ, quan Huyện cùng Nguyễn Công làm biểu tâu lên vua. Vua lệnh cho sứ giả đến xã Vân Du triệu ông về triều. Ông vâng mệnh về triều hành lễ bái tạ vua. Vua thấy ông tướng mạo đường đường, oai phong lẫm lẫm, hình dáng khác thường, liền ban cho tên húy là Vãng, tự là Vị, lại thử tài văn võ. Ông ứng đối như nước chảy, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý. Vua lập tức phong là Thống chế Đốc lãnh Binh nhung Sự vụ Đại tướng quân, nhậm chức ở đạo Ái Châu. Ông bái tạ vua, phụng mệnh dẫn binh về nhậm sở. Trên đường đi, ông quay về xã Vân Du bái yết vợ chồng Nguyễn Công, mổ trâu bò, mở tiệc lớn, khao thưởng nhân dân, lại truyền cho nhân dân dựng cung sở tọa Cấn, hướng Khôn. Ông ban cho nhân dân 10 hốt vàng để sau này tu sửa nơi thờ phụng mình... Sau đó, ông đem binh về nhậm sở, được ba bốn năm thiên hạ thanh bình, trongphủ vô sự, nhân dân vui cảnh ấm no, bốn bể sống trong cảnh thái bình. Ông lưu lại giúp việc triều chính, phong ông là Đô Thiên Thái Giám Đại Hành Quốc Chính..

Từ đó, Vãng công về triều nhậm chức, thi hành việc điều thiện, làm việc phúc đức được 20 năm thì dâng biểu tâu lên vua xin được về xã Vân Du thăm nom dưỡng phụ, dưỡng mẫu. Vua đồng ý rồi lệnh cho nhân dân xã Vân Du lập sinh từ cùng chung hưởng sự tốt đẹp muôn đời. Ngày mùng 5 tháng 5 vợ chồng Nguyễn Công tuổi đã 70, không bệnh tật gì mà cùng qua đời. Ông dâng biểu tẩu xin về quê chịu tang, hết 3 năm vua ra chiếu triệu ông về triều nhậm chức.

Lại nói:

Bấy giờ có một bộ chủ nước Ai Lao là Thục vương, cũng dòng dõi nhà hào kiệt thế gia chia trị Ai Lao. Nghe tin vua Hùng Duệ Vương tuổi đã cao, bèn thừa cơ tiến vào cướp nước Vua Hùng... Vua lại phong cho Vãng công làm Đại nguyên soái Đốc lĩnh Thủy bộ cùng các tướng lĩnh chia làm nhiều đạo đưa quân sự thống lĩnh binh hùng, đạo của Vãng công tiến thẳng đến Hoan Châu, Ải Châu chống lại quân Thục. Ông bái tạ trước bệ rồng, trên đường đi, ông về qua xã Vân Du mở yến tiệc, lại chọn lấy nghĩa bình ở xã Vân Du, ông chia quân tiến đánh quân Thục, cùng nhiều mũi tiến công khác khiến quân Thục đại bại. Chúa Thục bỏ chạy về nước. Bấy giờ, ông dâng biểu tấu nạn xâm lăng đã bình. Nhà vua vô cùng vui mùng, hạ chiếu ban thưởng, ông được gia phong là Thượng Thánh Vãng Vị Đại Vương. Ông dâng biểu tấu xin vua rước sắc về lập sinh từ tại chính sở... Từ đó, ông ở lại quê hương, giáo hóa nhân dân thi hành điều lễ nghĩa, khuyến khích học hành, cấy cày, trồng dâu, làm lợi và trừ hại. Nhân dân trong làng đội ơn đức của ngài được sống trong cảnh thanh bình.

...Một ngày, [tức ngày mồng 10 tháng 10], Vãng công đi đến đạo Hải Dương, lên núi Yên Tử, ngồi trên tảng đá lớn, chợt nghe thấy tiếng hổ gầm rống từ trời hạ xuống, hai bên phân ra tả hữu, lại thấy mây đen kéo đến, mưa to gió lớn, trời đất tối sầm, Vãng công theo mây lành ngũ sắc hóa về trời. Ngay hôm đó mối đã lấp kín thành ngôi mộ lớn. Người dân xã Vân Du đi cùng thấy việc kỳ lạ, sợ hãi quay về báo cho người dân địa phương mổ trâu bò hành lễ tế tự, vâng mệnh viết lại thần hiệu Thượng Thánh Vãng Vị Đại Vương phụng thờ vạn năm muôn thưở không cùng”

Hiện nay, tại Đình làng Vân Du Thượng thờ ngài trong Hậu cung, đặt ban thờ Chính giữa. Ngoài ra, ngài còn được thờ tại di tích đền La; đền làng Vân Du Hạ, đền Núi Ngự Hầu, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô.

Tại di tích còn lưu giữ được 2 đạo sắc phong thời Nguyễn sắc cho xã Vân Du, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình phụng sự Vãng Vị tôn thần và gia phong mỹ tự cho thần là: Trác vỹ Dực bảo Trung hưng Thượng đẳng thần

Sắc phong 1: Ngày 11 tháng 8 niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 (1909)

Sắc phong 2: Ngày 25 tháng 7 niên hiệu Khải Định năm thứ 9 (1924)

2. Nhân vật phối thờ: Tại di tích đình làng Vân Du Thượng, trong Hậu cung có 2 ban thờ hai bên tả - bên hữu thờ Quan Văn và Quan Võ.

Ngoài ra, di tích còn lưu giữ 03 đạo sắc cho Bản Cảnh thành hoàng, 03 sắc phong cho Trinh khiết Phu nhân, 01 đạo đạo sắc cho Liễu Hạnh công chúa và 12 đạo sắc hợp phong cho các vị thần. Đây là những sắc phong trước kia được lưu giữ tại đền, phủ làng Vân Du Thượng. Hiện nay, các đạo sắc phong này được rước về lưu giữ tại đình làng Vân Du Thượng.

B. Sự kiện liên quan tới di tích

1. Di tích trong thời kỳ kháng chiến:

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954):

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, vùng đất xã Yên Thắng là vùng địch hậu, xung quanh có hệ thống đồn bốt dày đặc của Thực dân Pháp như bốt núi Cháy, đồi Cao, đồi Chầu, núi Mắc. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Ninh Bình là kiên trì phục hồi sơ sở Đảng, cơ sở quần chúng trong vùng địch hậu, nhiều chiến sĩ cách mạng về bám đất, bám dân. Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến, di tích là cơ sở hoạt động bí mật, tiếp nhận thông tin chuyển ra ngoài vùng địch hậu, là địa điểm đóng quân sinh hoạt, chữa trị vết thương cho bộ đội, dân quân du kích. Là địa điểm của các lớp bình dân học vụ.

Năm 1947, di tích là địa điểm tổ chức thành lập chi bộ đảng đầu tiên của xã Yên Thắng.

Năm 1952-1954, di tích là địa điểm chứa kho lương thực của Nhà nước.

Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954-1975):

Sau khi miền Bắc được giải phóng (1954), đình Văn Du Thượng được sử dụng là nơi phục vụ các hoạt động công cộng của làng xã.

- Năm 1964, di tích được sử dụng làm trụ sở và kho dự trữ lương thực của Hợp tác xã.

- Là nơi tổ chức các lớp bình dân học vụ của xã, sơ tán của trường cấp 1 cấp 2, xã Yên Thắng.

- Vào các đợt giao quân, di tích là nơi làm lễ, đưa tiễn các thế hệ con em quê hương lên đường vào Miền Nam tham gia kháng chiến chống đế quốc Mỹ; là nơi báo tử các liệt sỹ hy sinh.

2. Di tích trong thời kỳ hòa bình:

Ngày nay, đời sống kinh tế của nhân dân phát triển, đình làng Vân Du Thượng giữ vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân, là trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân trong vùng, là cầu nối để đưa con em xa quê trở về với quê cha đất tổ, nơi họ đã sinh ra và lớn lên.

PHẦN V. SINH HOẠT VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH

Nét sinh hoạt văn hóa tại đình làng Vân Du Thượng vốn có từ xa xưa, được các thế hệ ngày nay lưu giữ như những giá trị truyền thống to lớn mà ông cha để lại, trở thành nét đẹp văn hóa truyền thống độc đáo, phản ánh đời sống tinh thần của nhân dân. Thể hiện sự tri ân, tấm lòng thành kính của thế hệ sau đối với các bậc tiền nhân bằng các nghi lễ tôn nghiêm, cầu quốc thái dân an, người dân khỏe mạnh, hạnh phúc.

Theo Thần tích làng Vân Du có ghi: “Thời Đinh – Lê, Lý – Trần khai sáng nghiệp lớn, thần hiển rõ linh ứng, cầu mưa được mưa, cầu gió được gió, trải qua các triều đại đều được gia phong là Phúc thần, hưởng thụ lâu dài cùng đất nước.

- Ngày 15 tháng Giêng, lễ dùng: trâu, bò, gà, làm theo lệ đến ngày 30 thì dừng

- Còn như ngày sinh (mùng 2 tháng 2), ngày hóa của Đại vương thì cung thỉnh Thánh phụ Nguyễn gia và Thánh mẫu Trần thị cùng phối hưởng

- Ngày 10 tháng 10 là ngày Đại vương hóa, lễ dùng lợn đen, bánh dày và rượu, làm lễ theo lệ, 3 ngày thì dừng.

Những người dự tế lễ là chức sắc, trùm, lão, hương lý và những người dự có chức dịch đều được dự lễ. Trước ngày dự lễ phải ăn chay và tắm gội sạch sẽ. Lúc tế lễ thì viên chính tế cùng các viên chức đều phải dùng áo, mũ, hia...”

Như vậy, từ xa xưa, các ngày lễ thần trong một năm tại nơi thờ tự đã được ghi chép rõ trong Thần tích để lưu lại cho các thế hệ sau.

Tiếp nối truyền thống, giá trị văn hóa di sản tốt đẹp đó, ngày nay nhân dân làng Vân Du Thượng vẫn duy trì các ngày lễ trên, đặc biệt là hai kỳ lễ chính: Ngày mùng 2/2 và mùng 10/10 âm lịch. Địa điểm tổ chức diễn ra tại đình. Hai dịp lễ hội được tổ chức quy mô và hình thức giống nhau. Lễ hội được tổ chức trong hai ngày một đêm. Phần lễ, có rước kiệu (3 kiệu) từ đền La (đền thờ chính thần Vãng Vị) về đình làng Vân Du Thượng, tại đền có tổ chức tể nam quan và nữ quan. Phần hội có tổ chức các trò chơi như: múa lân, leo cầu phao, bắt vịt, ném vòng, cờ người... Đặc biệt là trò kéo chữ và đánh kiếm. Kết thúc hội cả làng sẽ tập chung thụ lộc tại đình làng.

Ngoài hai lễ chính như trên, tại đình làng Vân Du Thượng vào các ngày lễ tiết, tư, rằm, mùng một đều có người hương khói và lễ bái.

PHẦN VI. KHẢO TẢ DI TÍCH

1.Tổng thể:

Đình làng Vân Du Thượng được tọa lạc trên địa phận làng Vân Du Thượng, xã Yên Thắng với diện tích 1490m2, xung quanh giáp khu dân cư. Đình quay hướng Đông, phía trước là khoảng sân rộng, cổng đình quay hướng Nam. Không gian chính của di tích gồm sân, tòa Tiền đường và Hậu cung

2. Kiến trúc

Đình Vân Du Thượng được xây theo kiến trúc kiểu chữ nhị (=), gồm hai toà Tiền đường và Hậu cung nằm song song nhau, phía trước Tiền đường là khoảng sân rộng, phía sau Tiền đường là khoảng sân nhỏ tiếp giáp với Hậu cung. Nhân dân địa phương gọi tòa Tiền đường là Đình ngoài, tòa Hậu cung là Đình trong.

Tiền đường: gồm 5 gian 2 dĩ, tường hồi bít đốc, dài 13,35m, rộng 7,2m

Hậu cung: gồm 5 gian, 2 dĩ, tường hồi bít đốc, dài 13,35m, rộng 702m

Khoảng sân nhỏ nối giữa Tiền đường và Hậu cung dài 13,35m, rộng 2,2m

Kiến trúc cụ thể của di tích:

* Tòa Tiền đường: gồm 5 gian, 2 dĩ, tưởng hồi bít đốc, với thiết kế để thông thoáng phía trước và phía sau (phía trước không có hệ thống cửa, phía sau không có hệ thống tường). Đây là lối thiết kế truyền thống, tạo sự thông thoáng cho di tích.

Tiền đường được thiết kế hai mái, lợp ngói vảy. Bờ nóc đắp thẳng, hai đầu đắp hai đấu vuông, trên đấu có hình búp sen, kìm nóc hình hoa văn chữ triện, bờ chảy xây giật cấp xuống mái hiên.

Nền Tiền đường cao 0,20m so với mặt sân, lát gạch thất. Tiền đường được chia làm 5 gian, tương ứng với các gian là 6 bộ vì đỡ mái được làm theo kiểu “thượng giường, hạ bẩy”, trên các con giường có chạm khắc hoa văn sóng nước, các con đấu có chạm khắc hoa chữ triện. Trên các ván mê ở xà nách có chạm khắc hoa văn chữ triện kết hợp với hoa văn sóng nước, các mảng chạm khắc mang tính nghệ thuật, tinh xảo theo lối chạm nổi, kiểu vì này xuất hiện trong các kiến trúc kế kỷ XIX nhà Nguyễn.

Toàn bộ hệ thống mái Tiền đường được nâng đỡ bởi hệ thống tường, cột và kết cấu gỗ đỡ mái. Hệ thống cột có 4 hàng cột dọc và 6 hàng cột ngang, tổng cộng là 24 (12 cột cái, 12 cột quân), được làm bằng gỗ lim, tiết diện tròn, cột cái có đường kính 0,37m, cao 3,85m, cột quân nhỏ hơn, đường kính 0,2, cao 2,95m. Chân cột được kê trên chân tảng đá hình âm dương (phía dưới hình vuông, phía trên hình tròn). Hai hàng cột quân đỡ hệ thống kẻ bẩy ở phía trước và sau đình, không có hệ thống cột hiên nên dùng bẩy hiên đỡ mái hiên.

Tiếp sau Tiền đường là khoảng sân nhỏ nối với Hậu cung, sân lát gạch đỏ, để thoáng không có mái che, tạo sự thông thoáng để lấy ánh sáng cho di tích. Ở chính giữa sân đặt lư hương và hai cây đèn lớn bằng đá.

* Tòa Hậu cung: gồm 5 gian, 2 dĩ, tường hồi bít đốc, dài 13,35m, rộng 7,0m, hiên rộng 1,5m.

Hậu cung được thiết kế hai mái, lợp ngói vảy. Bờ nóc đắp thẳng, hai đầu đắp hai đấu vuông, trên hai đầu bờ nóc đắp hai kìm hình đầu rồng, đuôi cong hình lá chính giữa nóc trang trí lưỡng long chầu nguyệt.

Nền Hậu cung cao 0,3m so với sân, với bậc lên xuống bằng đá.

Hậu cung có 5 gian, tương ứng với 5 cửa ra vào. Hệ thống cửa được làm bằng gỗ, thiết kế theo kiểu bức bàn, then cài chân xoay. Cửa chính giữa rộng 2,32m, cao 1,85m, có 5 cánh cửa, 4 cửa gian, mỗi cửa rộng 2,0m, các cánh cửa được thiết kế bằng nhau. Trên mỗi cánh cửa được bổ ô, trên các ô được chạm khắc tứ quý, hoa văn chữ triện... Ngưỡng cửa làm bằng đá, cao 0,45m dài 13,35m, rộng 7,2m, trên ngưỡng đá có chạm khắc hoa văn.

Phần mái Hậu cung gồm các bộ vì, hệ thống hoành rui được nâng đỡ bởi hệ thống tường và cột gỗ lim. Hệ thống cột có 4 hàng cột dọc và 6 hàng cột ngang, tổng cộng là 24 (12 cột cái, 12 cột quân), được làm bằng gỗ lim, tiết diện tròn, các cột được kê trên chân tảng đá cổ bồng. Hàng cột hiện được thiết kế liền với hệ thống cửa, tạo sự thông thoáng rộng rãi cho di tích. Trên các bộ vì được thiết kế kiểu chồng rường, kẻ bẩy, trên các con rường và bẩy hiện có chạm khắc rồng, hoa văn sóng nước.

Gian Hậu cung là nơi đặt ba ban thờ: Ban chính giữa thờ Thành hoàng làng Vãng Vị, gian bên trái thờ quan Võ, gian bên phải thờ quan Văn

Di tích đình làng Vân Du Thượng là di tích đã trải qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo, tuy nhiên vẫn giữ được nét kiến trúc truyền thống của dân tộc, các cấu kiện kiến trúc kết nối cân đối, hài hòa trong từng bố cục công trình, các mảng hoa văn chạm khắc tinh xảo, có giá trị về mặt thẩm mỹ.

PHẦN VIII: GIÁ TRỊ DI TÍCH

Nghiên cứu về di tích và nhân vật thờ cúng tại đình làng Vân Du Thượng, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, chúng tôi nhận thấy giá trị nổi bật sau:

- Đình làng Vân Du Thượng thờ cúng nhân vật Vãng Vị tôn thần, là công thần triều Hùng Vương, đã có công giúp dân, giúp nước, là nhân vật có vị trí quan trọng trong đời sống tín ngưỡng truyền thống bản địa của nhân dân. Việc thờ các vị tiền nhân có công với dân với nước, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, nhớ ơn tiên của nhân dân ta. Nhân dân thờ cúng và tôn thờ ông với vai trò là Thành hoàng làng, luôn che trở và phù giúp nhân dân trong cuộc sống

- Đình làng Vân Du Thượng là nơi còn lưu giữ được kiến trúc truyền thống của dân tộc với nhiều mảng chạm khắc hoa văn tinh xảo cùng các hiện vật, tư liệu lịch sử như: sắc phong, thần tích, bài vị, bát hương... Đây là những bằng chứng vật chất có giá trị về mặt lịch sử và văn hóa, cho thấy sự tồn tại lâu đời của cộng đồng nhân dân nơi đây.

- Di tích còn là nơi lưu giữ được các sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nơi bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống to lớn mà ông cha để lại, đó đã trở thành một nét đẹp truyền thống độc đáo của quê hương, tạo sự cố kết cộng đồng, trở thành trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa của nhân dân.

- Tìm hiều về di tích, để bổ sung thông tin tư liệu về quá trình hình thành làng Vân Du nói riêng, về vùng đất Yên Mô nói chung. Đồng thời hiểu rõ hơn về những đóng góp của di tích trong các giai đoạn lịch sử của dân tộc, làm nổi bật truyền thống cách mạng, tinh thần đoàn kết, bảo vệ, giữ gìn, xây dựng quê hương đất nước.

Như vậy, việc nghiên cứu làm rõ giá trị của di tích là góp phần làm rõ thêm lịch sử con người và vùng đất Yên Mô, bổ sung thêm điểm đến văn hóa cho nhân dân và du khách. Tạo cơ hội cho sự phát triển của địa phương nói riêng và của tỉnh nói chung.

PHẦN IX. THỰC TRẠNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH

Đình làng Vân Du Thượng đến nay vẫn chưa xác định được thời gian khởi đầu xây dựng. Theo ghi chép trên Thượng lương tòa Hậu cung có ghi năm trùng tu vào tháng 8 năm Thành Thái thứ 7 (1895), có thể xác định, đình làng Vân Du Thượng có trước năm 1895. Trải qua thời gian, hiện nay di tích đình làng Vân Du Thượng đã có nhiều thay đổi. Với tâm huyết của nhân dân và chính quyền địa phương, di tích được quan tâm thường xuyên trùng tu, tôn tạo để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân. Những lần tu bổ được ghi chép như sau:

-Tại thượng lương Hậu cung ghi:

“Hoàng triều Thành Thái thất niên tuế Ât Mùi trọng thu nguyệt cốc nhật lương thời tu tạo"

Dịch nghĩa: Ngày lành tháng trọng thu (tháng 8) năm Ất Mùi hoàng triều Thành Thái thứ 7 (1895) tu tạo

-Tại thượng lương Tiền đường ghi:

“Hoàng triều Duy Tân thất niên tuế Quý Sửu quý thu nguyệt cốc nhật trùng tu thụ trụ thượng lương đại cát"

Dịch nghĩa: Ngày lành tháng quý thu (tháng 9) năm Quý Sửu hoàng triều Duy Tân thứ 7 (1913) dựng thượng lương đại cát

Đến năm 2003, nhân dân công đức lợp ngói Tiền đường và Hậu cung

Năm 2020, đại tu di tích. Tu bổ toàn bộ Tiền đường và Hậu cung.

Nhân dân và chính quyền địa phương đã thành lập Ban khánh tiết. Ban khánh tiết có nhiệm vụ tổ chức sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng theo truyền thống, gìn giữ, bảo vệ, sưu tầm những tài liệu liên quan đến di tích và tuyên truyền, vận động nhân dân xây dựng, đóng góp công đức cho di tích ngày càng khang trang.

Về mặt pháp lý, di tích được chính quyền địa phương và các cơ quan liên quan cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Thửa số 264 tờ bản đồ số 3, tổng diện tích 1490m2. Đo đạc hiện trạng năm 2005.

PHẦN X. PHƯƠNG HƯỚNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH.

Qua nghiên cứu thực trạng di tích, chúng tôi đề xuất phương hướng bảo vệ và phát huy giá trị nhằm bảo tồn bền vững di tích gắn với việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương như sau:

- Chính quyền địa phương và nhân dân làng Vân Du Thượng có trách nhiệm thực hiện quản lý, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của di tích đảm bảo các quy định của Luật Di sản văn hóa, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

- Hàng năm, duy trì và phát huy các nét sinh hoạt văn hóa truyền thống, nhằm giáo dục cho nhân dân địa phương và các thế hệ con cháu tự hào về truyền thống lịch sử và những giá trị văn hóa của địa phương, làm gia tăng tính cố kết cộng đồng, góp phần quan trọng xây dựng đời sống văn hoá cho nhân dân, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của giai đoạn hiện nay.

- Cần có biện pháp lâu dài để giữ gìn những kiến trúc, hiện vật, đồ thờ tự có giá trị và những giá trị lịch sử, văn hóa tín ngưỡng của di tích

- Trên địa bàn xã Yên Thắng có nhiều di tích, đình làng Vân Du Thượng góp phần tạo thêm sự phong phú, đa dạng của các loại hình di tích lịch sử. Vì vậy cần có giải pháp kết nối hệ thống các di tích trên một cách khoa học, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân và cho du khách thực hiện các nghi lễ, sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng.

PHẦN XI. KẾT LUẬN

Thể theo nguyện vọng của nhân dân, cùng đề nghị của các cấp chính quyền địa phương tại Công văn số 1985/UBND-VHTT ngày 27 tháng 9 năm 2022 của Ủy ban nhân dân huyện Yên Mô về việc đề nghị khảo sát và xếp hạng di tích lịch sử văn hóa đình làng Vân Du Thượng, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô; Căn cứ vào những giá trị khoa học, lịch sử văn hóa của di tích, phòng Quảng Lý Di sản Văn hóa (Sở Văn hóa và Thể thao) phối hợp với đại phương lập hồ sơ khoa học, và đề nghị Hội đồng khoa học xét duyệt xếp hạng di tích tinh Ninh Bình, trình Ủy ban nhân dân tỉnh xếp hạng đình làng Vân Du Thượng, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình là di tích lịch sử cấp tỉnh.

                                                                                                                                                                               Dương Kim Ngân - Bí thư Đoàn thanh niên xã

 


Tác giả: UBND Xã Yên Thắng
Tổng số điểm của bài viết là: 32 trong 32 đánh giá
Click để đánh giá bài viết